Tuy nổi cơ đồ về nghề bán thuốc ho, hen, tuy đã xử
nhẹ với những người cùng chung huyết mạch với mình để chiếm lấy hai môn thuôc tổ
phụ di truyền, nhưng ông Ba Bồ chẳng bao giờ chịu nhận mình là ông lang, mặc dầu
thiên hạ vẫn coi ông là một ông lang danh tiếng.
Sự thật thì ông Ba Bồ cũng không có chút gì là “lang dạng”. Hai má phinh phính bánh
đúc, bộ mặt tròn trĩnh như bánh dày bày mẹt, mép với cằm nhẵn thín, gần 40 tuổi
mà ông còn hơ hớ như con trai trẻ măng.
Một tiếng Tây không biết, chữ Nho cũng ù cạc, nhưng
ông mặc ta thì ra vẻ “nho đạo” mà diện tây cũng đúng “mốt A-đam”. Vì không có một
luật lệ nào bắt người dốt nát phải ở truồng, nhất người dốt nát ấy lại là người
nhiều tiền, nên bọn thợ may tha hồ đè ông ra mà đo, cắt.
Hai bàn tay trắng nuột của ông nó làm chứng cho rằng
ông không bao giờ phải viên thuốc hay tán thuốc! Có lẽ ông Ba Bồ cho hai việc ấy
là việc làm đê tiện nên không tiện dịp
nào có thể phô được mà ông khong phô hai bàn tay ông.
[…] người ta thấy ông đem bày cả ra tận ngoài đường.
Hai bàn tay bắt chéo lên nhau rồi khẽ đặt giữa lòng, chẳng phải là biểu hiện của
sự tương thân tương trợ […] hoặc trọng tình con bệnh với thày lang, vì đối với
người bệnh, ông chỉ biết bóp cổ lấy tiền mà đối với thân thíc họ hàng thì ông mất
lần lôi họ ra đe nẹt.
Khắc hẳn các bạn đồng nghiệp của ông đi bán thuốc ho
hen, thuốc sài đẹn dong đường, ông Ba Bồ không có dây đeo lưng hay tay nải
xách. Cả đến thuyền tán, ô kéo, dao cầu, ông cung không có nốt! Tủ kính hàng
ông chỉ bày toàn liễn; giá ngoài hiên ông không yết bảng bán thuốc, thì người
qua đường tất phải lầm nhà ấy là một cửa hàng bát liễn hay một… viện bảo tang!
Không sành chơi đồ sứ cổ nhưng thức gì người ta bảo
là cổ, ông cũng cố mua cho được, vì ông cho chơi như thế là cách chơi của con
nhà dòng sang. Cái sang ấy người ta thấy ông bày la liệt khắp nhà, la liệt khắp
tường, ở những thống lớn, đèn con, đĩa tấc, đĩa thước.
Sự giàu sang, ông có thừa nhưng ông vẫn thèm muốn một
chút danh, ngoài cái danh của nghề làm thuốc. Trong trí ông, một thày lang
không bao giờ bằng một quan huyện nên ông thường dịch phục để tập cho có những
dáng điệu và cử chỉ của các bậc phụ mẫu dân.
Những ngày khánh tiết, những dịp thành phố đưa đón
các bậc thượng khách, chẳng có giấy người ta mời dự, ông cũng chịu khó cho sốp-phơ
đánh ô-tô đi lộn sòng vào đoàn xe các quan. Lúc này, ông trút bộ âu phục ở nhà,
bận áo dài quần chùng, khăn xếp, giầy ban,
cổ lại để nửa kín nửa hở sợi dây kim-tông có lẽ chỉ là sợ dây buộc giấy chiếc
thẻ bài cửu phẩm.
Mặc ta ngồi ô tô cầm lấy vô-lăng, sợ người ngoài lầm mình là sốp-phơ, bao giờ ông Ba Bồ cũng
bắt sốp-phơ ngồi bên khoanh tay trước ngực. Rồi cái xe vô tội ấy phải nhiều lần
qua lại các phố có người đẹp để những người ấy tha hồ mà đoản phỏng, tưởng lầm
Làm dáng cho mình còn chưa đủ, ông Ba Bồ lại còn làm
dáng cho cả ô tô, xe nhà, phu xe, sốp-phơ của ông! Ô tô bốn còi, xe nhà hai
đèn, sốp-phơ đủ blouse và kespi, phu xe đủ nón chóp bông hèo và sà
cạp.
Hai môn thuốc gia truyền ho hen đã làm ông có nhà lầu
ô tô nhưng ông vẫn trách thầm tổ phụ ông sai lại đi “đâm” vào cái nghề giao cầu
thuyền tán! Trông bóng trong gương, ông vẫn bảo thầm ông có bộ mã một quan huyện
– hay ít nhất cũng một viên hậu tuyển tri huyện – thì sao “bà mẫu” ác nghiệt chẳng
đẻ ngay ra ông làm quan huyện, lại đẻ ông ra làm một ông lang!
Làm quan giả dạng, làm lang bất đắc dĩ, ông Ba Bồ
còn thêm nhiều “đức” nữa như thích trưng diện và hiếu danh.
Người ta liệt kê ông vào hạng “Lang Băm”; nhưng muốn
tên gọi có tính cách giễu cợt đối với cái “tánh” thích làm “quan lớn” của ông,
có người còn đặt thêm cho ông một chức nữa, một chức mà là một tên: “quan lang…lớn!”.
LINH PHƯỢNG
(Nguồn: Tác phẩm Quan lang...lớn! thuộc chuyên mục Tập Ảnh, đăng trên báo Ích Hữu)
©
2012 Blog NXB Tân Dân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét